Anh Tông Tuần Hoàng Đế

[ 49 trang ]

Tách câu và Phiên âm

. [13b*1*1]
Phạm Viết Mậu đẳng tứ nhân tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Nhân An đẳng thất nhân đồng tiến sĩ xuất thân.
. [13b*3*1]
Anh Tông Tuấn Hoàng Đế [Huý Duy Bang. Tại vị thập lục niên, thọ tứ thập nhị tuế,] Phụ Mạc [Phúc Nguyên ngũ niên Mậu Hiệp thập nhất niên, Đế dĩ Đế thất chi trụ lại huân thần tôn lập đồ phục trung hưng chân thiên mệnh hữu quy hĩ Nhiên sự công vị bán nghi hoặc tiệm sinh thiên tín sàm ngôn, bá thiên vu ngoại. Bi hĩ!] Sơ, Thái Tổ đệ nhị huynh Trừ [tặng Lam quốc công, kim tôn phong Hoằng Dụ Vương,] Trừ sinh Khang, [tặng Quỳ quốc công,] kim tôn phong Hiển Công Vương,] Khang sinh Thọ, [kim tôn phong Quang Nghiệp Vương,] Thọ sinh Duy Thiệu, [kim tôn phong Trang Giản Vương,] Duy Thiệu sinh Duy Khoáng, [kim tôn phong Hiếu Tông Nhân Hoàng Đế,] Duy Khoáng thú Đông Sơn huyện Bố Vệ hương sinh Đế.
. [13b*9*2]
Thời Trung Tông băng vô tự, Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm cập đại thần lập chi.

Trang: 13b

Dịch Quốc Ngữ


bọn Phạm Viết Mậu 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Nhân An 7 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Anh Tông Tuấn Hoàng Đế

(Tên húy là Bang, ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi)

Phụ: Họ Mạc (Phúc Nguyên 5 năm, Mậu Hợp 11 năm)

Vua là dòng dõi đế thất, nhờ huân thần tôn lập, mưu cuộc trung hưng, thực là mệnh trời trao cho vậy. Song sự nghiệp chưa xong một nửa, lòng nghi hoặc dần nảy sinh, chỉ tin lời gièm pha mà xiêu giạt ra ngoài. Thương thay!

Trước kia, anh thứ hai của Thái Tổ là Trừ (tặng Lam quốc công, nay tôn phong là Hoằng Dụ Vương). Trừ sinh ra Khang (tặng Quỳ quốc công, nay tôn phong là Hiển Công Vương). Khang sinh ra Thọ (nay tôn phong là Quang Nghiệp Vương), Thọ sinh Duy Thiệu (nay tôn phong là Trang Giản Vương), Duy Thiệu sinh Duy Khoáng (nay tôn phong là Hiếu Tông Nhân Hoàng Đế), Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ, huyện Động Sơn, sinh ra vua. Bấy giờ, Trung Tông băng, không có con nối, Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm và các đại thần đón lập lên.