gái |
I. Người thuộc về giống cái, đối với trai: Sinh được một trai, hai gái. Văn-liệu: Dâu hiền nên gái, rể hiền nên trai. Gái mà chi, trai mà chi, Sinh ra có ngãi, có nghì là hơn. Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa. Số cô có vợ, có chồng, Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. Gái có công, chồng chẳng phụ. Gái tham tài, trai tham sắc. Gái đĩ già mồm. Gái chính-chuyên chẳng lấy hai chồng. Gái lỡ thì gặp quan tri goá vợ. Gái một con, trông mòn con mắt. Gái có con như bồ-hòn có rễ. Gái có chồng như rồng có vây. Gái có chồng như gông đeo cổ. Gái không chồng như thuyền không lái. Gái chưa chồng hay đi chợ, Trai chưa vợ hay đứng đường. Thế-gian ba sự khôn chừa, Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ. Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao (K). Trai tài, gái sắc, xuân đương vừa thì (K). Gái thương chồng đang đông buổi chợ, Trai thương vợ nắng quái chiều hôm (T-ng). II. Tiếng người đàn-bà tự xưng: Lấy chồng lần nữa, gái này xin thôi (thơ Yên-đổ). III. Đàn-bà chưa có chồng: Người đã đứng tuổi mà hãy còn con gái. IV. Nói người con gái hãy con trinh: Người kia chưa mất con gái. |