phá giá |
đt. Làm cho mất giá cũ, thường nói về tiền bạc: Phá giá có nghĩa là làm giảm bớt giá tiền trong nước, theo một tỷ-lệ nào đó, để gây ra một bình-giá giữa thứ tiền trong nước với thứ tiền nước ngoài. Phá giá thường là một phương tiện mà một chính-phủ dùng để giảm bớt giá tiền-tệ trong nước, có nghĩa là giảm bớt giá bán của hàng-hoá trong nước để cho nước ngoài dễ mua, có nghĩa là xuất-cảng được nhiều vì lẽ đòn câu mậu-dịch trong nước nghiên-ngửa, số hàng-hoá nhập-cảng nhiều hơn số xuất-cảng, tiền xuất ra nhiều hơn là tiền thâu vào. Lối ấy có nhiều phương diện mà tuỳ theo đó, một cuộc phá giá tiền-tệ có lợi hay hại. Ảnh hưởng của sự phá giá đối với việc xuất cảng có lợi hay là không phải tuỳ hai yếu tố: sức sản-xuất trong xứ phải dồi dào và phải có hàng-hoá tiện cho việc xuất cảng; sức cầu nghĩa là sự mua hàng-hoá của nước ngoài cũng phải tăng theo một tỷ lệ nào đó đối với cuộc phá giá. Nếu một nước mà khả năng sản-xuất không đủ, ví dụ trường hợp của những nước Âu-châu ngay sau chiến tranh thứ hai, một sự phá giá, một sự giảm suất hối-đoái không giúp gì cho sự xuất cảng cả. Chỉ có giá hàng-hoá trong xứ lên theo tỷ-lệ của sự phá giá mà thôi. Bởi vậy, ngay sau trận chiến tranh thứ hai, thời giá của các thứ tiền-tệ ở Âu-châu vẫn giữ được một giá cao tương đối với đồng đô-la. Trái lại, sau một thời-gian mà sức sản-xuất trong xứ đã đến một độ mạnh rồi và sự xuất-cảng có thể mở-mang, thì sự phá giá có thể thực hành được để cạnh tranh với hàng-hoá ngoại quốc. Đó là trường hợp của Pháp đã làm năm 1928 và năm 1948, ở Anh năm 1931 và năm 1949, khi thấy đồng tiền của mình giá cao quá đối với các thứ tiền ngoại quốc, làm trở ngại cho xứ ngoài muốn mua hàng-hoá của xứ mình. Thực ra thì lối ấy, chỉ lợi trong một lúc đầu vì theo giáo-sư G.Pirou thì "sự phá giá tiền tệ sẽ có lợi tạm thời về xuất cảng đối với hàng-hoá nước khác mà tiền tệ còn giá cũ. Khi những nước khác đã hiểu tình thế như vậy, họ sẽ có nhiều lợi-khí để đối phó, trước hết là cùng phá giá đồng tiền của họ. Như vậy là gây ra liên-tiếp nhiều cuộc phá giá của nhiều nước...". Hiện-tượng ấy cũng đã xảy ra. Phản-hưởng của một cuộc phá giá tiền-tệ đối với việc nhập-cảng lại càng phức tạp lắm. Thường thì sau một cuộc phá giá, đồng tiền trong nước rẻ, tự nhiên mua nguyên-liệu ở nước ngoài phải trả tiền nhiều hơn. Trả tiền nguyên-liệu nhiều hơn, đến khi làm ra hàng-hoá, thì hàng-hoá ấy cũng phải tăng giá. Trong trường hợp ấy chính phủ phải tìm cách bóp giá hàng trong nước đừng cho tăng. Đối với sự phá giá đồng liu của Anh thì tránh được trường hợp trên vì đã lôi cuốn được một phần lớn các xứ trong khu vực đồng liu phá giá theo, mà các nơi ấy. Anh thường mua nguyên-liệu. Đối với khu vực khác, như khu vực đồng đô-la hay đồng phật-lăng chẳng hạn, thì sự mua hàng-hoá ở các khu ấy đã giảm bớt rất nhiều. Theo giáo sư D. Pirou nhận xét về cuộc phá giá đồng liu của Anh năm 1931, chỉ có giảm bớt được sự nhập cảng chớ xuất-cảng tăng không có là bao vì hồi ấy hàng-hoá của nước nào cũng đầy ứ thị-trường và sức mua của nước nào cũng kém. Hơn nữa, những nước nào thấy có sự "xâm lăng" của hàng-hoá Anh cùng đều tìm những biện-pháp thích ứng để đối phó lại như ra những sắc-lệnh hạn-chế nhập-cảng một vài thứ hàng-hoá, đánh thuế bù-trừ. Như đã trình bày trên kia, cái lối phá giá tiền-tệ là khi nào trong nước lâm vào một tình trạng nghiêng-ngửa về đòn cân mậu-dịch xuất ra nhiều, thâu ít, bán ra ít, mua vào nhiều, tóm lại là ở trong một tình trạng hàng-hoá ứ lại bán không được mà cứ vẫn phải mua nguyên liệu, vẫn sản-xuất. Nếu không cái nạn "cho thợ nghỉ" cái nạn thất nghiệp sẽ nguy hại vô cùng. Nhưng phương tiện phá giá chỉ là một lối tạm thời, một sự "sửa-đổi tiền tệ" tạm thời khó cứu vãng được nền kinh-tế của chế-độ tư-bản đến thời-kỳ sản-xuất quá bội. Nguyên nhân của sự khủng-hoảng tiền-tệ không phải ở trong chế-độ tiền-tệ mà ở ngay trong toàn thể chế-độ kinh-tế tư bản // Phá-giá. Phá giá đồng liu. |